Tô Hiệu: Người chiến sỹ Cộng Sản trung kiên
Mỗi độ Tết đến, xuân về, nổi bật giữa bức tranh sơn thủy hữu tình của mùa xuân quê hương Sơn La, có một dáng đào lại bung nở đỏ thắm, tỏa hương thơm ngát. Đó là cây đào mọc bên ngách xà lim Nhà tù Sơn La, được người chiến sỹ cộng sản trung kiên Tô Hiệu ươm mầm và chăm sóc từ những năm 1940. Trải qua những trận đánh phá bằng bom của giặc (Pháp đánh phá năm 1952, Mỹ đánh phá năm 1965) nhằm xóa dấu vết tội ác, Nhà tù Sơn La bị phá huỷ gần hết nhưng như có một phép màu kỳ lạ, cây đào mang tên Tô Hiệu vẫn như còn nguyên vẹn. Cây đào tiếp tục bám rễ, vươn cành và nở hoa như một nhân chứng của lịch sử, khẳng định sức sống mãnh liệt, ý chí quật cường, đấu tranh gian khổ của những chiến sĩ cộng sản trung kiên, lạc quan, kiên cường, dũng cảm, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của người anh hùng liệt sỹ Tô Hiệu.
Cây đào Tô Hiệu
Đồng chí Tô Hiệu, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1912 trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Thân phụ của đồng chí Tô Hiệu là cụ Tô Y, năm 1915 cụ Tô Y mất khi đó Tô Hiệu mới 3 tuổi và chưa có tên chính thức. Sau này tên Tô Hiệu là do cụ Tô Tu (anh cả) đặt cho. Gia đình của đồng chí Tô Hiệu có 5 anh chị em là: Tô Tu, Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Thị Xuyến, Tô Thị Phúc.
Là con trai út trong gia đình có truyền thống yêu nước, ông giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn nhỏ. Năm 1927, ông lên Hà Nội ở với người anh cả Tô Tu. Tại đây, ông học tại trường Pháp Việt, thị xã Hải Dương và sớm tham gia vào các phong trào yêu nước của học sinh như: Bãi khoá truy điệu Phan Chu Trinh, tham gia phong trào đòi thả Phan Bội Châu. Năm 1928 ông vào Sài Gòn cùng anh ruột Tô Chấn tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng. Là người giàu nhiệt huyết, có bản lĩnh chính trị vững vàng, năm 1929 ông được Chi bộ Nhà tù Côn Đảo bồi dưỡng trở thành đảng viên ưu tú. Năm 1930, ông bị bắt và bị kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Tại nhà tù Côn Đảo, đồng chí Tô Hiệu bị thực dân Pháp giam cầm và tra tấn rất dã man. Ông tham gia tổ chức vượt ngục nhưng không thành và bị địch phạt giam ở hầm xay lúa cùng với đồng chí Tôn Đức Thắng. Chế độ nhà tù hà khắc đã làm đồng chí Tô Hiệu bị lao phổi nặng, dù vậy ông vẫn kiên cường tham gia đấu tranh và tiếp tục học tập lý luận cách mạng. Năm 1934, ông mãn hạn tù trở về quê hương. Mặc dù bị quản thúc chặt chẽ, nhưng ông vẫn tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng tại Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng; tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương và được bầu vào Thượng vụ Xứ ủy Bắc Kỳ và được phân công xây dựng cơ sở cách mạng ở Thái Nguyên. Mặc dù bị ho lao do kết quả 4 năm tù khắc nghiệt tại Côn Đảo nhưng đồng chí Tô Hiệu vẫn hăng hái công tác và năm 1936 được cử vào Ban thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách công tác tuyên huấn.
Trong hai năm 1936 – 1937, ông tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng tại Hà Nội và một số tỉnh khác.
Cuối năm 1938, đồng chí Tô Hiệu được phân công phụ trách miền Duyên hải Bắc Kỳ. Tại Hải Phòng, đồng chí Tô Hiệu hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức nhiều cuộc đình công, biểu tình và trực tiếp tham gia đấu tranh. Điển hình là cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng, bắt đầu từ tháng 4 năm 1939 đến ngày 21 tháng 5 năm 1939. Đồng chí Tô Hiệu chỉ đạo chi bộ Đảng nhà máy Tơ lãnh đạo tranh đấu, liên hệ với báo Đời Nay, yêu cầu đưa tin ủng hộ, gặp tổ chức Thanh niên dân chủ Pháp và Thanh niên dân chủ Việt Nam yêu cầu giúp đỡ. Cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng gây được tiếng vang lớn, được đồng chí Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài quan tâm chú ý.
Ngày 30 tháng 5 năm 1939 đồng chí Tô Hiệu trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước của hàng ngàn công nhân tiểu thương và lao động thành phố Hải Phòng. Thực dân Pháp bắt 72 người biểu tình, trong đó có Tô Hiệu; nhưng Tô Hiệu thoát được ra ngoài. Tháng 10 năm 1939, Xứ uỷ Bắc Kỳ thành lập các khu Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương và vùng mỏ thuộc khu B (sau đó gọi là liên tỉnh B) trong đó đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư Khu uỷ, xúc tiến thành lập ra báo Chiến Đấu, cơ quan tuyên truyền của Khu uỷ B.
Trước sự đàn áp của thực dân Pháp đối với phong trào, đồng chí Tô Hiệu chuyển hướng hoạt động từ công khai rút vào bí mật, sàng lọc cán bộ công khai. Trong suốt thời kỳ hoạt động ở Hải Phòng, đồng chí Tô Hiệu với cương vị Bí thư Khu uỷ B đã không thành lập Thành uỷ Hải Phòng mà trực tiếp lãnh đạo phong trào.
Năm 1938 – 1939, ông được điều về đặc trách Bí thư Liên khu B (bao gồm các tỉnh Duyên hải Bắc Bộ, Hải Dương, Hưng Yên và kiêm Bí thư Thành ủy Hải Phòng ).
Ngày 1 tháng 12 năm 1939, đồng chí Tô Hiệu bị bắt tại một cơ sở in ở xóm Hạ Lý, khu vực nhà máy chỉ và bị tra tấn. Bị kết án 5 năm tù tại nhà tù Sơn La, tại đây, đồng chí Tô Hiệu được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, tham gia công tác tuyên truyền cách mạng và đấu tranh cải thiện chế độ nhà tù.
Nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu (1912-1944)
Con người cộng sản của Tô Hiệu càng tôi luyện và thể hiện nổi bật trong 4 năm bị giam cầm ở Nhà tù Sơn La. Tên tuổi của ông được gắn liền với chi bộ nhà tù. Tại đây, ông bị thực dân Pháp coi là nhân vật cực kỳ nguy hiểm, lấy cớ ông bị lao phổi nặng nên biệt giam ở xà lim hình tam giác, diện tích chưa đầy 4m2 và cách ly hoàn toàn với các tù nhân khác. Ông phải làm việc khổ sai biệt lập, không được tiếp xúc với ai ngoài lính gác. Dù bị ảnh hưởng bởi điều kiện hà khắc trong tù và bệnh lao hành hạ nhưng đồng chí Tô Hiệu vẫn hoạt động bí mật. Trong suốt 4 năm trong nhà ngục Sơn La “Địa ngục trần gian”, ông đã vận động, cảm hóa được nhiều binh lính ở đây, nhiều người giác ngộ, cảm tình sau đó tham gia cách mạng. Với kinh nghiệm hoạt động cách mạng và từng trải qua các lao tù, ông đã tìm cách liên lạc với các tù nhân chính trị và tham gia lãnh đạo đấu tranh. Ông đã cùng các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và một số đồng chí khác thành lập chi bộ nhà tù để đưa ra đường lối và nhiệm vụ cụ thể lãnh đạo của hoạt động của tù nhân chống lại chế độ nhà tù hà khắc, bảo toàn lực lượng cách mạng.Trong thời gian hoạt động cách mạng ông được mọi người đánh giá cao :
Ông Nguyễn Văn Trân (cựu tù nhân chính trị nhà ngục Sơn La) đã nói:“Tất cả những thành tích của phong trào cách mạng đạt được, thời kỳ 1936 – 1939 ở Hải Phòng và ở Chi bộ nhà tù Sơn La, công đầu là đồng chí Tô Hiệu – Một người Bí thư Chi bộ tài năng, được tất cả các anh em quý mến, tuyệt đối tín nhiệm, coi như người anh tinh thần, coi như linh hồn của nhà tù Sơn La”. Ông Nguyễn Thanh Bình (Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng) phát biểu:“Đồng chí Tô Hiệu là người dìu dắt tôi trong buổi đầu hoạt động cách mạng, là người kết nạp tôi vào Đảng.
Ông Hoàng Tùng (Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương): “Anh Tô Hiệu không bao giờ nêu ý kiến có tính quyết định mà giảng giải cặn kẽ để anh em suy nghĩ trước khi vấn đề trở thành nghị quyết”. Ông Vũ Duy Hiệu (Nguyên Phó Tổng Giám Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam): “Khi ở Côn Đảo, anh Tô Hiệu còn trẻ hơn tôi nhưng tôi luôn coi anh như một tấm gương lớn mà tôi phải noi theo vì anh rất mẫu mực.”
Ông Nguyễn Văn Minh (Nguyên Phó bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ từ 1936 – 1939): “Đồng chí Tô Hiệu ở Hà Nội từ năm 1936 đến năm 1939 rất quyết liệt khôn khéo. Anh đúng là một người: Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Ông Thành Ngọc Quản (Nguyên Bí thư liên tỉnh B – Bí thư Thành ủy Hải Phòng 1939): “Đồng chí Tô Hiệu thực sự là thần tượng cụ thể, là một trong những người thầy cách mạng gần gũi và thân thiết nhất của tôi, nhưng anh rất khiêm tốn và gần quần chúng.”
Tại Hải Phòng, đồng chí Tô Hiệu là linh hồn của các cuộc bãi công lớn ở đây mà tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân nhà máy tơ Hải Phòng. Đến ngày thứ 12, cuộc bãi công vẫn không được giải quyết. Nhiều người nao núng, đồng chí Tô Hiệu nói: “Đấu tranh đến cùng”. Kết quả chiều hôm đó, chủ nhà máy Tơ nhụt chí, cả 5 yêu cầu của công nhân nhà máy tơ đều được giải quyết: Một là: Tăng lương 20% cho thợ. Hai là: Mở một số cửa thông gió để thợ thở. Ba là: Mở một phòng thuốc để chữa bệnh cho thợ. Bốn là: Chấm dứt việc đuổi thợ. Năm là: Thợ có con nhỏ được nghỉ 40 phút để cho con bú. 12 ngày đình công của thợ máy tơ đều được tất cả các báo lớn cả nước đưa tin. Ông Lê Giản, nguyên Phó chánh án Tòa án Nhân dân tối cao đã từng nói: “Anh Tô Hiệu đi đến đâu phong trào lên đến đó”.
Bên cạnh đó, khi đấu tranh với địch, đồng chí Tô Hiệu luôn quyết liệt nhưng cũng rất khéo léo làm kẻ thù khiếp sợ và kính nể. Chẳng hạn tại cuộc vận động xây dựng trường học ở quê nhà là một việc khó nhất từ xưa nay chưa ai làm được vì ở đâu có trường học, đồng chí Tô Hiệu sẽ tuyên truyền cách mạng và lực lượng trẻ sẽ mạnh lên. Nhưng đồng chí Tô Hiệu đã kiên trì đấu tranh với lý lẽ đầy thuyết phục: Tiền thì dân góp, trường và tài liệu học là của đốc học cung cấp, không ủng hộ dân không được. Đốc học Hưng Yên phải ngậm bồ hòn khen ngọt mà ngồi dự khánh thành trường
Tháng 5 năm 1940, ông được làm Bí thư Chi bộ Nhà tù Sơn La. Nhưng vì sức khỏe yếu, đến tháng 10 năm 1941, đồng chí Trần Huy Liệu thay giữ chức Bí thư Chi bộ nhà tù. Trong cuốn ‘ Tinh thần Tô Hiệu ” Đại Tướng Văn Tiến Dũng – người bạn tù của Tô Hiệu – kể lại: Tuy thể xác bị bệnh lao phổi tàn phá, nhưng đồng chí vẫn vượt lên bệnh tật, tổ chức công tác tuyên truyền cách mạng. Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, mở các lớp học văn hóa, chính trị, quân sự, bồi dưỡng giảng viên, hướng dẫn các cuộc đấu tranh. Tinh thần hi sinh tận tụy vì Đảng, vì dân của anh có sức cuốn hút, thuyết phục cám hóa rất lớn. Đồng chí là người thầy, người anh được mọi người tin yêu cảm phục”.
Có thể nói, đồng chí Tô Hiệu chính là linh hồn của Chi bộ Nhà tù Sơn La. Từ khi chi bộ ra đời, các hoạt động cách mạng trong nhà tù đã có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, có phương hướng rõ ràng, có tổ chức và phương pháp lãnh đạo đúng đắn. Vì thế, đời sống của tù nhân được cải thiện rõ rệt, tổ chức được nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi. Tuyên truyền cho binh lính và đồng bào địa phương hiểu về người cộng sản, từ đó yêu quý và bảo vệ những người cộng sản, bồi dưỡng nhiều cán bộ cho Đảng, đóng góp gieo mầm phong trào cách mạng cho tỉnh Sơn La. Đồng chí Nguyễn Văn Trân – cựu tù chính trị tại Nhà tù Sơn La – kể lại: Những thành công to lớn của Chi bộ Nhà tù Sơn La có sự đóng góp công đầu của dồng chí Tô Hiệu. Với bản lĩnh chính trị kiên cường, tinh thần trách nhiệm cao, rất nhạy cảm với cái đúng, cái sai, giải quyết công việc thận trong, chính xác, phẩm chất trong sáng, chí công vô tư, tận tụy hy sinh vì cách mạng. Đồng chí Tô Hiệu đúng là người con cộng sản mẫu mực, người lãnh đạo xuất sắc hiếm có.
Biết không thể qua khỏi vì lâm trọng bệnh, nhưng ông vẫn cố gắng, một tay ôm ngực một tay viết tài liệu huấn luyện cho Chi bộ Nhà tù, đồng chí nói với anh em: Mình biết chắc sẽ chết sớm hơn mọi người. Vì vậy, mình phải tranh thủ thời gian để chiến đấu, phục vụ cho Đảng, cho cách mạng.
“Tinh thần Tô Hiệu” là biểu tượng ý chí, tinh thần cách mạng, của niềm tin và chiến thắng, là nguồn động lực, khích lệ hàng vạn chiến sĩ cộng sản khiến quân thù khiếp sợ, mãi lưu truyền trong các thế hệ cách mạng, là tài sản vô giá đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của lịch sử dân tộc.
Chế độ lao tù hà khắc của thực dân Pháp và bệnh tật hiểm nghèo đã cướp đi sinh mạng đồng chí Tô Hiệu, ngày 07 tháng 3 năm 1944 ông đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà tù Sơn La khi mới 32 tuổi, mộ ông được an táng tại nghĩa trang Vườn ổi. Sự ra đi của ông là mất mát lớn, tổn thất nặng nề cho Chi bộ Nhà tù Sơn La và phong trào cách mạng Việt Nam. Ông mất đi để lại niềm tiếc thương vô hạn, sự khâm phục kính trọng của những đồng chí, bạn tù và đồng bào các dân tộc Sơn La. Cuộc đời tuy ngắn ngủi với 18 năm hoạt động cách mạng, nhưng những cống hiến của ông cho phong trao cách mạng Việt Nam nói chung và phong trào cách mạng Sơn La nói riêng thì thật là to lớn.
Khi nhắc tới đồng chí Tô Hiệu nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười đã viết: “Cuộc đời đồng chí tuy ngắn ngủi, nhưng những cống hiến của đồng chí cho dân tộc và cho cách mạng thật là to lớn”.
Đại tướng Nguyễn Văn Dũng đã nói: Trong số trăm ngàn liệt sỹ đã hi sinh vì nước, vì dân, đồng chí Tô Hiệu nổi lên như một người mà chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù thực dân, đế quốc chẳng những không đè bẹp được ý chí cách mạng mà trái lại, nó trở lên như một thứ lửa vàng, hun đúc để trở thành gang thép.
Kể từ ngày nhà cách mạng Tô Hiệu về nơi vĩnh hằng, nhưng tấm gương về tinh thần và ý chí cách mạng vẫn chói sáng. Trong vách tường đá của nhà tù, cây đào mang tên Tô Hiệu vẫn mãi xanh tươi, đó là biểu tượng cho tinh thần bất khuất của những người tù cộng sản, cho sức sống mãnh liệt của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là lời nhắc nhở hậu thế rằng: Mùa xuân nhân loại – chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ khai hoa kết trái trên đất nước Việt Nam thân yêu. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông, sau khi cách mạng thành công, nhiều địa danh tại Sơn La cũng như trong nước được mang tên người anh hùng liệt sỹ Tô Hiệu. Càng tự hào hơn khi sau này, một cành của cây đào Tô Hiệu đã được chiết và đưa về trồng bên Lăng Bác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 2 tháng 3 năm 2022
ĐẢNG ỦY TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ
CHI BỘ 4