Công tác Tuyên giáoTin tức

ĐÓA SEN VÀNG MANG TÊN HỒ CHÍ MINH

ĐÓA SEN VÀNG MANG TÊN HỒ CHÍ MINH

 

Mấy hôm nay, đón con đi học về, tôi nghe bé hát những câu hát:

“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng

Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt Nam….

Bác chúng em dáng cao cao, người thanh thanh

Bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài

Bác chúng em nước da nâu vì sương gió..,”

Tôi mỉm cười trước câu hỏi của con trai, “Mẹ ơi, Bác Hồ đang ở đâu vậy mẹ? Bác Hồ mấy tuổi và Bác vất vả đúng không mẹ?”

Tôi trả lời những câu hỏi của con và chợt nhớ đến thời học sinh của mình của vài chục năm trước. Tôi cũng được hát những câu hát như con và cũng muốn biết cuộc đời của Bác đã trải qua những dấu ấn gì, Bác sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh như thế nào để cuối cùng Việt Nam có một vị lãnh tụ vĩ đại mang tên Hồ Chí Minh?

Và tôi đã bắt đầu kể cho con mình nghe về một đóa sen vàng mang tên Hồ Chí Minh.

 

Thuở nhỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tên là Nguyễn Sinh Cung. Bác Hồ sinh ngày 19-5-1890 tại quê ngoại là làng Hoàng Trù (còn gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), trong một gia đình nhà Nho, và cũng là gốc nông dân.

Cha của Bác Hồ là cụ Nguyễn Sinh Sắc (sau này đổi tên thành Nguyễn Sinh Huy), sinh năm 1862, mất năm 1929, quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung Cự, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cụ Nguyễn Sinh Sắc xuất thân từ gia đình nông dân, mồ côi cha mẹ sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm việc và ham học. Khi còn trẻ, như nhiều người có chí đương thời, ông dùi mài kinh sử, quyết chí đi thi. Nhưng càng học, càng hiểu đời, ông nhận thấy: “Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn”. Do đó, sau khi đỗ Phó bảng, được trao một chức quan nhỏ, nhưng vốn có tinh thần yêu nước, khẳng khái, ông thường chống đối lại một số quan trên và thực dân Pháp lúc bấy giờ. Cũng chính vì thái độ chống đối này, sau một thời gian làm quan, ông bị cách chức. Sau đó, ông quyết định vào Nam Bộ làm thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời.

 

Mẹ của Bác Hồ là bà Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868, mất năm 1901. Bà Hoàng Thị Loan một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải. Lúc nào, bà Loan cũng hết lòng thương yêu và chăm lo cho chồng con.

 

Bác Hồ có một người chị gái tên Nguyễn Thị Thanh (còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên), sinh năm 1884, mất năm 1954. Bác có một người anh trai tên Nguyễn Sinh Khiêm (còn có tên là Nguyễn Tất Đạt), sinh năm 1888, mất năm 1950. Em trai của Người là bé Xin, sinh năm 1900 nhưng vì ốm yếu nên sớm qua đời không lâu sau đó.

Các anh chị của Người lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, nên rất chăm làm việc và cũng rất thương người. Tất cả đều là những người yêu nước, đã tham gia phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp, triều đình phong kiến bắt bớ tù đày trong nhiều năm.

 

Tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều cột mốc quan trọng.

Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Nguyễn Sinh Cung sống ở quê nhà trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của ông bà ngoại và cha mẹ. Bác được lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quê hương nên bản tính hiếu học, cần cù trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống và bất khuất trước kẻ thù. Nguyễn Sinh Cung lúc nào cũng ham hiểu biết, thích nghe chuyện và hay hỏi những điều mới lạ, từ các hiện tượng thiên nhiên đến những chuyện cổ tích mà bà ngoại và mẹ thường kể cho mình nghe.

 

Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi cụ Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội. Từ cuối năm 1895 đến đầu năm 1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại Huế, ở nhờ nhà một người quen ở trong thành nội (nay là số nhà 112, đường Mai Thúc Loan). Đó là những năm tháng gia đình ông Sắc sống trong cảnh gieo neo, thiếu thốn. Bà Hoàng Thị Loan làm nghề dệt vải, còn ông Sắc ngoài thời gian học, phải đi chép chữ thuê để kiếm sống, để học và dự thi.

Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình lúc này càng thêm chật vật khó khăn. Gần cuối năm 1898, theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho một số học sinh ở làng Dương Nỗ, tại ngôi nhà của ông Nguyễn Sĩ Khuyến (em trai ông Nguyễn Sĩ Độ), xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 6 km. Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về đây và bắt đầu học chữ Hán tại lớp học của cha.

Cuối năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hoá. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan đã sinh bé Xin trong hoàn cảnh khó khăn túng thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chứng kiến nỗi đau mất mẹ và em.

 

Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người. Đó là những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác, những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng lại chỉ biết khúm núm rụt rè, và phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục như nhau. Đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là “bọn nhà quê”, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố… Tất cả những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức của cậu bé Nguyễn Sinh Cung.

 

Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội trở lại Huế, đưa con về quê. Sau khi thu xếp cuộc sống cho các con, được sự động viên của bà con trong họ ngoài làng, ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự kỳ thi hội năm Tân Sửu. Lần này đi thi ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy.

Tháng 5-1901, ông Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu. Khoảng tháng 9-1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội. Ông Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành.

Từ lúc này Bác có tên mới là Nguyễn Tất Thành.

 

Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và thầy Trần Thân. Các thầy đều là những người yêu nước và Nguyễn Tất Thành không chỉ được học chữ mà còn được nghe nhiều chuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan. Trong những người mà ông Sắc thường gặp gỡ có cụ Phan Bội Châu. Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, chí sĩ Phan Bội Châu cũng day dứt trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc. Con người nhiệt huyết ấy trong lúc rượu say vẫn thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai:

 

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,

Lập thân tối hạ thị văn chương.

 

(Dịch nghĩa:

Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách,

Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương)

 

Câu thơ đã tác động nhiều đến cậu học trò Nguyễn Tất Thành và góp phần định hướng cho người thiếu niên sớm có hoài bão lớn.

 

Lớn lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Đó là nạn thuế khoá nặng nề cùng với việc nhân dân bị bắt làm phu xây dựng đường trong tỉnh, làm đường từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng (Lào) nơi rừng thiêng nước độc. Những cuộc ra đi không có ngày về, nhân dân lầm than, ai oán.

 

Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán. Tại đây Nguyễn Tất Thành lại có dịp nghe chuyện thời cuộc của các sĩ phu đến đàm đạo với cha mình.

 

Cuối năm 1904, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, khi ông Sắc đến đây dạy học. Ngoài thời gian học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng trong tỉnh như làng Đông Thái, quê hương của Phan Đình Phùng, thăm các di tích thành Lục niên, miếu thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp,…

 

Tháng 7-1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, Thái Bình, trong dịp cha mình đi gặp các sĩ phu ở vùng đó.

Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Bác ái.

 

Những chuyến đi này giúp Nguyễn Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ. Cậu học trò xuất thân làng Sen xứ Nghệ nhận thấy ở đâu người dân cũng lam lũ đói khổ, nên dường như trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy bọn áp bức bóc lột thực dân phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, anh đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào”.

Sau nhiều năm lần lữa việc đi làm quan, cuối tháng 5-1906, ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất Thành và anh trai cùng đi theo cha. Vào Huế một lần nữa, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai được cha cho đi học Trường tiểu học Pháp – Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906), lớp sơ đẳng (cours élémentaire, tháng 9-1907).

 

Ở Huế, lần này xảy ra một sự kiện đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Nguyễn Tất Thành. Tháng 4-1908, anh đã tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, đây chính là khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt đời Người vì quyền lợi của nhân dân lao động. Vì những hoạt động yêu nước, tham gia cuộc đấu tranh của nông dân, Nguyễn Tất Thành bị thực dân Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Huy cũng bị quan trên khiển trách vì đã để cho con trai có những hoạt động bài Pháp.

Tuy nhiên, tháng 8-1908, Nguyễn Tất Thành được ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê (Chouquet) tiếp nhận vào học tại trường. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp trung đẳng (lớp nhì) (cours moyen) tại Trường Quốc học Huế.

Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báo Pháp. Các thầy giáo của Trường Quốc học Huế có người Pháp và cả người Việt Nam, có những người yêu nước như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnh hưởng của các thầy giáo yêu nước cùng với các tư liệu quý giá từ nguồn sách báo tiến bộ mà anh học trò Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc, quyết tâm đi sang phương Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Cùng thời gian đó, Nguyễn Tất Thành còn được nghe kể về những hành động của những vị vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và cả những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ. Tất cả những điều đó đã thôi thúc Thành làm một điều gì đó khác để có thể tìm con đường cứu nước.

 

Khoảng tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành rời Trường Quốc học Huế theo cha vào Bình Định, khi ông được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê. Trong thời gian ở Bình Khê, Nguyễn Tất Thành thường được cha dẫn đi thăm các sĩ phu trong vùng và thăm di tích lịch sử vùng Tây Sơn.

Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi học tiếp chương trình lớp cao đẳng (lớp nhất – cours supérieur), tại Trường tiểu học Pháp – Việt Quy Nhơn. Ông Nguyễn Sinh Sắc hiểu khả năng và chí hướng người con trai thứ của mình nên đã tạo điều kiện cho anh được tiếp tục học lên.

Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành hoàn thành chương trình học. Sau khi nghe tin cha bị cách chức Tri huyện Bình Khê, bị triệu hồi về Kinh, anh đã xin phép không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam.

Trên đường từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết. Ở đây anh xin vào làm trợ giáo (moniteur), được giao dậy một số môn học, đồng thời phụ trách các hoạt động ngoại khoá của Trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành lập năm 1907. Ngoài giờ lên lớp, Nguyễn Tất Thành tìm những cuốn sách quý trong tủ sách của cụ Nguyễn Thông để đọc. Lần đầu tiên anh được tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp như Rútxô (Rousseau), Vônte (Voltair), Môngtétxkiơ (Montesquieu). Chính sự tiếp cận với những tư tưởng mới đó càng thôi thúc anh tìm đường đi ra nước ngoài.

 

Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm), nhà số 128, Khánh Hội. Ở Sài Gòn một thời gian ngắn, anh thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi. Ở đâu anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành cũng hay đến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là quần áo cho các thủy thủ trên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước mơ có những chuyến đi xa.

 

Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lăng và đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân bị nô lệ, đói khổ, lầm than. Quê hương xứ Nghệ có truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm và khoảng thời gian 10 năm sống ở Kinh đô Huế – trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, được tiếp xúc với nền văn hóa mới, với phong trào Duy Tân, đã cho Nguyễn Tất Thành nhiều hiểu biết mới về con đường làm cách mạng. Nhìn lại các phong trào yêu nước (Cần Vương, khởi nghĩa Hương Khê, Phong trào Đông Du, Phong trào Đông Kinh nghĩa thục, cuộc khởi nghĩa Yên Thế, cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ), Nguyễn Tất Thành rất khâm phục và đều coi trọng các bậc tiền bối, nhưng anh quyết định không đi theo những con đường đó. Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi anh có một quyết định chính xác và táo bạo là “phải xuất dương tìm đường cứu nước”.

 

Và ngày 05.6.1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã bước lên con tàu Amiral Latouche Tréville, rời bến cảng Nhà Rồng, khởi đầu một cuộc hành trình tìm đường cứu nước kéo dài suốt 30 năm, để rồi sau đó đã mang về ánh sáng tự do cho dân tộc.

Chi bộ 3

Tham khảo: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/thoi-nien-thieu-cua-chu-tich-ho-chi-minh-1890-1911-3487